Search This Blog

Friday, 6 March 2020

GIA PHẢ FSOFT ĐÀ NẴNG - PHẦN 2

GIA PHẢ FSOFT ĐÀ NẴNG - PHẦN 2

Phần II: FSOFT Đà Nẵng ra đời
Mùa Hè năm 2004, Nhóm G5 có chuyến nghỉ mát tại Lăng Cô và đặc biệt đáng nhờ trên bờ biển Mỹ Khê, nhóm đặt ra ý tưởng chuyển nhà G5 từ Hà Nội vào Đà Nẵng để lập nên một chi nhánh nữa sau khi FSOFT HCM ra đời (13/4/2004). Sau 5 năm hoài thai, từ Nhóm SBOI và G5, 13/8/2005, FSOFT Đà Nẵng chính thức ra đời.
Năm Thành Nam thứ Bảy (2005),từ G3, các G sau được sinh ra:
G6 (FHCM): Phạm Minh Tuấn nhường ngôi Đường chủ G3 cho Hoàng Thanh Sơn để làm Đường chủ G6.
SU15 (FHCM): Kỳ chủ Nguyễn Thế Nhân (Cao thủ của Đường G9). Năm Thành Nam thứ 9 (2007), Kỳ này bị giải thể, sáp nhập vào Phân đường G33.
Cũng năm này, Phân bang mới FSOFT ĐN (FSDN) chính thức được thành lập nhằm vào 13/8/2005, do kỳ tài Bùi Thiện Cảnh làm Phân bang Chủ. Phân bang mới ở Đà Nẵng khi mới thành lập chỉ gồm có duy nhất một đường là G5, cũng do Đại tướng Bùi Thiện Cảnh tự mình làm Đường chủ.
G5 lúc này gồm 2 phân đường (D – Division) là:
- G5.D1 (FSDN): Trần Hữu Đức – Phân đường chủ
- G5.D2 (FSDN): Lê Hà Đức – Phân đường chủ
Một phần nhỏ nhân sự của G3.DMS tại Đà Nẵng phụ trách Call Center, tạm gọi là G3.DMS.CallCenter.
Năm Thành Nam thứ Tám (2006),một Phân đường mới được hình thành không từ G nào cả mang tên:
G12 (FHCM): do Đường chủ G1 Hoàng Mạnh Hùng lead. Tại Hà Nội, Tân đường chủ G1 là Đào Duy Cường lên thay thế. Về sau này, Hoàng Mạnh Hùng lại nhường ngôi vị lại cho Trần Duy Vinh. Sau một năm, Lý Đức Đoàn làm Đường chủ G12. Sau đó vài năm, G12 đến đây là tuyệt.
Từ G2 sinh ra:
G21: Đường chủ Trần Xuân Khôi.
Cũng năm này, Lê Mai Anh lên làm Đường chủ G2. Cựu đường chủ Hoàng Việt Anh vượt biển sang Vương quốc Sư tử Đảo lập Phân bang FAPAC, sau đổi tên Phân bang thành FAP, xưng danh Hoàng Đảo chủ.
Năm Thành Nam thứ Chín (2007),một loạt Đường mới ra đời:
Từ G5, sinh ra G mới:
G10 (FSDN): nguyên là Phân đường G5.D2 tách ra lập thành Đường mới do Lê Hà Đức – một Đại tướng Phân đường G5.D2 làm Đường chủ.
G10 gồm 2 phần. Một phần tại Hà Nội là G10.D1 do anh Đức tự làm Phân đường chủ. Phần ở Đà Nẵng là G10.D2 do anh Lê Vĩnh Thành làm Phân đường chủ.
Phân còn lại của G5 ở Đà Nẵng có Đường chủ mới là Trần Hữu Đức (thay Đường chủ Bùi Thiện Cảnh – người bận nhiều công việc cho Phân bang Đà Nẵng).
G5 lúc này bao gồm 2 phân đường là:
G5.D1 do anh Lê Hải Nam làm Đường chủ chuyên trách thị trường tiếng Anh (Mỹ, Mã, Singapore).
G5.D3 do anh Nguyễn Sỹ Trung làm Đường chủ chuyên trách thị trường tiếng Nhật.
Từ G3, nhóm tại Hà Nội hình thành:
G11: do Trần Đăng Hòa làm Đường chủ.
Từ khách hàng ban đầu của G5, hình thành một nhóm mới:
G27: do Nguyễn Thành Long (Phó đường chủ G5) làm Đường chủ. Vào năm Hồng Liên thứ Nhất (2009), Đường chủ Quách Liễu Hoàn lên thay.
Năm Thành Nam thứ Mười (2008)
Đầu năm 2008, G10.D1 tách khỏi Phân bang FSOFT Đà Nẵng, sáp nhập vào Phân bang FSOFT HN. G10.D2 tách ra thành lập Kỳ bang riêng là SU17 trực thuộc Phân bang FDN. SU17 chia làm 3 phân đường là: SU17.D1 của Phân đường chủ Lê Xuân Lộc; SU17.D2 của Phân đường chủ Lê Hồng Lĩnh; SU17.D3 của Phân đường chủ Lê Phạm Quốc Hùng.
Đến Tháng 8 cùng năm, SU17 chính thức chuyển đổi thành G17.
Từ G10 sinh ra:
G17 (FSDN): do Lê Vĩnh Thành (nguyên Đại tướng G10) làm Đường chủ. Cũng năm này, G10 dần tách khỏi ĐN để chuyển về Phân bang tại Hà Nội. G17 chia làm 3 phân đường là: G17.D1 của Phân đường chủ Lê Xuân Lộc (SU17.D1 cũ); G17.D2 của Phân đường chủ Lê Hồng Lĩnh (SU17.D2 cũ); G17.D9 của Phân đường chủ Hồ Thúy Hằng (SU17.D3 bị giải tán).
Từ nhóm P1, mà phần đông là các Tướng lĩnh của G1, hình thành nên Đường mới:
G22: do Trần Việt Bình làm Đường chủ, sau đổi ra Đường chủ mới Bùi Vĩnh Thắng – đều là các Đại tướng G1.
Từ G9 sinh ra thêm 2 G mới:
G33 (FHCM): do Hà Duy Tuấn làm Đường chủ.
G39 (FHCM): do Trịnh Trúc Linh làm Đường chủ.
G9 (FHCM) cũng thay Đường chủ mới là Trần Thế Lân.
Lê Mai Anh Đường chủ G2 qua Đại đảo Úc Đại Lợi mở Phân bang FAUST, Đường chủ G2 thuộc về Hoàng Mạnh Hà. Cũng trong năm này, FSOFT còn mở các Phân bang ở:
- Hoa Kỳ, tên gọi FUSA do Bùi Hoàng Tùng là Phân bang Trưởng.
- Mã Đảo, tên gọi FMAS, do Phan Hoàng Sơn là Phân bang Trưởng.
- Phú Lãng Sa, tên gọi FEU, Lê Hà Đức là Phân bang Trưởng.
Năm Hồng Liên thứ Nhất (2009), Nguyễn Thành Nam thoái vị, nhường ngôi cho Tân Bang Chủ Bùi Hồng Liên, niên hiệu Hồng Liên thứ nhất.
Từ G1 sinh ra:
G16: Đường chủ Phạm Tú Cường.
Sau một thời gian, G39 và G9 cũng sáp nhập lại với nhau để hình thành:
G36 (FHCM): Đường chủ là Trịnh Trúc Linh, Phó đường chủ là Trần Thế Lân.
Năm Hồng Liên thứ Hai (2010)
FSOFT Phân bang tại HN, các G hợp lại, thành 5 Hội lớn:
I. FRD Hội: do Đường chủ G11 là Trần Đăng Hòa làm Hội trưởng, lực lượng chủ yếu là G11 cũ. G7 bị sáp nhập vào Hội này, gần như không còn dấu vết trên giang hồ. G6 khu vực HCM sau này do Nữ Đường chủ Phạm Thị Diễm Loan dẫn dắt cũng gia nhập FRD Hội, coi như là một Phân hội của FRD ở phía Nam.
II. FSE Hội: do Đường chủ Trần Xuân Khôi, sau là Vũ Đăng Khoa làm Hội trưởng. Lực lượng bao gồm G21 + G8 + G27.
III. F2W Hội: do Đường chủ Đào Duy Cường làm Hội Chủ. Lực lượng gồm: G1 + G2 + G10 + G16. Phạm Nhật Phương lên làm Đường chủ G1. Nguyễn Quang Hòa làm Đường chủ G10.
IV. FDM Hội: do Đường chủ Trần Đức Nghĩa làm Hội chủ. Lực lượng là G13.
V. GNC Hội: Hội chủ Hoàng Việt Anh. Lực lượng chính từ G22, ngoài ra còn tụ tập được các Hảo thủ 4 phương tụ về.
Tại Phân bang FHCM, lập thêm một Hội
VI: FPTSS Hội: Hội chủ Hoàng Thanh Sơn, tiền thân là lực lượng G3.
Các G33, G36, G12 ở Phân bang HCM thuộc về 2 Hội mới gọi là FHCM do anh Nguyễn Thành Lâm kiêm làm Hội trưởng.
Tại Phân bang Đà Nẵng, dấu vết các Phân đường dần dần mờ nhạt, nhường chỗ cho các Kỳ Đường mới hình thành với chủ trương "Trăm hoa đua nở", nhà nhà ấp trứng (SU) hóa rồng (BU).
Các G5, G17 ở Phân bang Đà Nẵng gọi là Hội FDN do anh Bùi Thiện Cảnh làm Hội trưởng.
G17 Đường chia thành 3 Kỳ Đường là:
SU29 Kỳ Đường (FSDN): Kỳ chủ Lê Hồng Lĩnh (G17.D2 cũ).
SU38 Kỳ Đường (FSDN): Kỳ chủ Lê Xuân Lộc (G17.D1 cũ).
SU20 Kỳ Đường (FSDN): Kỳ chủ Nguyễn Thành Vương (G17.D9 cũ sáp nhập với bộ phận làm thị trường tiếng Nhật của G5 là G5.D3).
G5 Đường của Đường chủ Nguyễn Tuấn Phương, cũng chia thành 3 Kỳ Đường là:
SU51 Kỳ Đường (FSDN): Kỳ đường chủ: Nguyễn Tuấn Dương.
SU25 Kỳ Đường (FSDN): Kỳ đường chủ: Trần Công Thành (một thời gian ngắn trước đó, SU25 do anh Đinh Đức Hiệp là Kỳ đường chủ, sau anh Hiệp về đầu quân cho G16 tại Phân bang Hà Nội).
S55 Kỳ Đường (FSDN): Kỳ đường chủ: Trần Minh Quân.
FDM Hội phối hợp cùng FDN.G17 mở thêm 1 phân nhánh ở Đà Nẵng đặt tên là DMC Kỳ đường (FSDN): Kỳ chủ Đoàn Hải Bằng.
Năm Hồng Liên thứ Ba (2011)
Phân bang FHCM lập thêm 1 hội mới gọi FMIS (FPT Medical Information System) được thành lập từ G33 và nhóm Nhật Bản của G36.
Tại Đà Nẵng, mô hình các SU chuyển đổi thành mô hình các BU, không còn Group (G17 và G5) nữa.
Toàn FDN có 7 BU: BU29, BU38, BU20 (với nguyên bản là các SU bên trên) và thành lập mới trung tâm phát triển mảng mobility là MASC (do anh Nguyễn Đức Tĩnh là Phân đà trưởng, nhưng anh Lê Vĩnh Thành đứng tên trên giấy tờ), BU17 (tồn tại chủ yếu trên giấy tờ do anh ThanhLV BUL), DMC (Đoàn Hải Bằng) và G5 chỉ còn là BU5 do PGĐ Nguyễn Tuấn Phương kiêm nhiệm làm BUL (BU5 lúc này có 2 Division do anh Nguyễn Tuấn Dương (BU5.D1) và anh Cao Lê Thành (BU5.D2) làm DL.
Năm này, Thiên hạ Thái Bình, nhưng công việc kinh doanh vẫn chưa ổn định do vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, FSOFT Bang lại loay hoay tìm con đường phát triển mới. Cuối năm này, Minh chủ FPT Trương Gia Bình quyết định nhiều quyết sách thay đổi. Bang chủ Bùi Hồng Liên tiếp tục sang Miến Điện quốc mở mang bờ cõi. Tân bang chủ Nguyễn Thành Lâm được Minh chủ ủng hộ lên thay thế.
(Còn nữa)

No comments:

Post a Comment